Nhà biên tập trang History, ngày 9 tháng 6, 2020
Translated from History's educational article "U.S. Immigration Since 1965"
Đạo luật Nhập cư và Nhập tịch năm 1965, còn được gọi là Đạo luật Hart-Celler, đã bãi bỏ một hệ thống hạn ngạch trước đó dựa trên nguồn gốc quốc gia và đã thiết lập một chính sách nhập cư mới dựa trên việc đoàn tụ các gia đình nhập cư và thu hút lao động lành nghề vào Hoa Kỳ. Trong bốn thập kỷ tiếp theo, các chính sách có hiệu lực vào năm 1965 đã thay đổi đáng kể cấu trúc nhân khẩu học của dân số Hoa Kỳ, khi những người nhập cư vào Hoa Kỳ theo luật mới đến từ các nước ở Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ Latin ngày càng nhiều, thay vì từ Châu Âu.
Đạo luật nhập cư và nhập tịch năm 1965
Tổng thống Lyndon B. Johnson ký Dự luật Di trú năm 1965.
Đầu thập kỷ 1960s, các lời kêu gọi cải cách chính sách nhập cư của Hoa Kỳ đã leo thang, nhờ một phần không nhỏ vào sức mạnh ngày càng tăng của phong trào dân quyền. Vào thời điểm đó, nhập cư dựa trên hệ thống hạn ngạch nguồn gốc quốc gia được áp dụng từ những năm 1920, theo đó mỗi quốc tịch được chỉ định một hạn ngạch dựa trên số lượng của họ trong các số liệu thống kê dân số Hoa Kỳ trước đây. Phong trào dân quyền tập trung vào việc đối xử bình đẳng bất kể chủng tộc hay quốc tịch khiến nhiều người coi hệ thống hạn ngạch là lạc hậu và phân biệt đối xử. Cụ thể, người Hy Lạp, Ba Lan, Bồ Đào Nha và người Ý có tìm cách vào Hoa Kỳ với số lượng ngày càng tăng đang cho rằng, hệ thống hạn ngạch phân biệt đối xử với họ nhưng lại có lợi cho người Bắc Âu. Tổng thống John F. Kennedy thậm chí đã đưa ra nguyên nhân cải cách nhập cư, phát biểu vào tháng 6 năm 1963 gọi hệ thống hạn ngạch là "không thể chịu đựng được."
Bạn có biết không? Một báo cáo vào đầu năm 2009 của Văn phòng Thống kê Di trú của DHS đã ước tính số lượng "người nhập cư trái phép" ở Hoa Kỳ là 10.7 triệu, thấp hơn so với 11.6 triệu trong năm 2008. Sự suy giảm nhập cư gần đây trùng với suy thoái kinh tế ở Mỹ, nhưng số liệu vẫn tăng so với năm 2000, khi những người nhập cư bất hợp pháp chỉ lên tới khoảng 8.5 triệu.
Sau vụ ám sát của Kennedy vào tháng 11, Quốc hội bắt đầu tranh luận và cuối cùng đã thông qua Đạo luật Di trú và Nhập tịch năm 1965, được đồng tài trợ bởi Đại diện Emanuel Celler của New York và Thượng nghị sĩ Philip Hart của Michigan và được ủng hộ nồng nhiệt bởi anh trai của cố tổng thống, Thượng nghị sĩ Ted Kennedy Massachusetts. Trong các cuộc tranh luận tại Quốc hội, một số chuyên gia đã làm chứng rằng luật cải cách sẽ gây ra ít thay đổi, và nó chỉ nên được xem như là nguyên tắc để có một chính sách cởi mở hơn. Thật vậy, khi đạo luật được ký thành luật vào tháng 10 năm 1965, Tổng thống Lyndon B. Johnson tuyên bố rằng hành động đó không phải là một dự luật mang tính cách mạng. Nó sẽ không ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng triệu người. Nó sẽ không định hình lại cấu trúc cuộc sống hàng ngày của chúng ta, hay sự giàu có hoặc sức mạnh của chúng ta.
Tác động tức khắc
Trong thực tế (và với lợi ích của sự suy xét), dự luật được ký năm 1965 đã đánh dấu một bước đột phá mạnh mẽ với chính sách nhập cư trong quá khứ, và có tác động ngay lập tức và lâu dài. Thay cho hệ thống hạn ngạch nguồn gốc quốc gia, luật mới này quy định các ưu tiên được thực hiện theo các danh mục, chẳng hạn như người thân của công dân Hoa Kỳ hoặc thường trú nhân, những người có kỹ năng được coi là hữu ích cho Hoa Kỳ, hoặc người tị nạn từ bạo lực hoặc bất ổn. Mặc dù nó đã bãi bỏ hạn ngạch, hệ thống này đã đặt giới hạn cho mỗi quốc gia và tổng số người nhập cư, cũng như giới hạn trên mỗi danh mục. Như trong quá khứ, đoàn tụ gia đình là một mục tiêu lớn và chính sách nhập cư mới sẽ ngày càng cho phép toàn bộ các gia rời khỏi các quốc gia khác và lập lại cuộc sống của họ ở Hoa Kỳ.
Trong năm năm đầu tiên sau khi thông qua dự luật, việc nhập cư vào Hoa Kỳ từ các quốc gia châu Á, đặc biệt là những người chạy trốn khỏi Đông Nam Á (Việt Nam, Campuchia), chiến tranh, đã tăng gấp bốn lần. (Theo các chính sách nhập cư trước đây, người nhập cư châu Á đã bị cấm nhập cảnh hoàn toàn.) Các cuộc xung đột thời Chiến tranh Lạnh khác trong những năm 1960 và 1970 đã chứng kiến hàng triệu người thoát khỏi đói nghèo hoặc khó khăn của chế độ cộng sản ở Cuba, Đông Âu và các nơi khác để tìm vận may của họ trên bờ bến Mỹ. Với mọi điều đã kể, trong ba thập kỷ sau khi Đạo luật Nhập cư và Nhập tịch năm 1965, hơn 18 triệu người đã nhập cư hợp pháp vào Hoa Kỳ, nhiều hơn ba lần con số được nhận vào 30 năm trước đó.
Đến cuối thế kỷ 20, các chính sách có hiệu lực của Đạo luật Di trú năm 1965 đã thay đổi rất nhiều bộ mặt của người dân Mỹ. Trong khi đó vào những năm 1950, hơn một nửa số người nhập cư là người châu Âu và chỉ có 6% là người châu Á, đến thập niên 1990 chỉ có 16% là người châu Âu và 31% là người gốc Á, trong khi tỷ lệ người nhập cư gốc Latino và châu Phi cũng tăng vọt. Từ năm 1965 đến năm 2000, số người nhập cư cao nhất (4.3 triệu) đến Hoa Kỳ đã đến từ Mexico, ngoài ra còn có 1.4 triệu người khác là từ Philippines. Hàn Quốc, Dominican Republic, Ấn Độ, Cuba và Việt Nam cũng là những nguồn nhập cư hàng đầu, mỗi nước đã gửi từ 700.000 đến 800.000 trong giai đoạn này.
Nguồn tranh luận liên tục
Trong suốt những năm 1980 và 1990, nhập cư bất hợp pháp là một nguồn tranh luận chính trị liên tục, khi những người nhập cư tiếp tục đổ vào Hoa Kỳ, chủ yếu bằng các tuyến đường bộ qua Canada và Mexico. Đạo luật cải cách nhập cư năm 1986 đã cố gắng giải quyết vấn đề bằng cách thực thi tốt hơn các chính sách nhập cư và tạo ra nhiều khả năng hơn để người dân nhập cư hợp pháp. Đạo luật này bao gồm hai chương trình ân xá cho người ngoại quốc trái phép và ân xá chung cho hơn 3 triệu người ở lại bất hợp pháp. Một phần khác của luật nhập cư, Đạo luật Di trú năm 1990, đã sửa đổi và mở rộng đạo luật năm 1965, tăng tổng mức nhập cư lên 700.000 người. Luật này cũng quy định về việc tiếp nhận người nhập cư từ các quốc gia của các nước "thiếu đại diện" để tăng tính đa dạng của dòng người nhập cư.
Suy thoái kinh tế xảy ra ở Mỹ vào đầu những năm 1990 đã đi kèm với sự hồi sinh của suy nghĩ chống người nhập cư, bao gồm cả những người Mỹ có thu nhập thấp cạnh tranh việc làm với những người nhập cư sẵn sàng làm việc với mức lương thấp hơn. Năm 1996, Quốc hội đã thông qua Đạo luật Cải Cách Nhập Cư và Trách Nhiệm Nhập Cư, trong đó nó đề cập đến việc tuân hành biên giới và sử dụng các chương trình xã hội của người nhập cư.
Nhập cư trong thế kỷ 21
Trước vụ tấn công khủng bố 11/9, Đạo luật An ninh Nội địa năm 2002 đã tạo ra Bộ An ninh Nội địa (DHS), nơi tiếp quản nhiều dịch vụ nhập cư và thực thi chức năng trước đây được thực hiện bởi Dịch vụ Nhập cư và Nhập tịch (INS). Với một số sửa đổi, các chính sách được đưa ra bởi Đạo luật Di trú và Nhập tịch năm 1965 vẫn là những chính sách quản lý nhập cư Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ 21. Những người không phải là công dân hiện đang vào Hoa Kỳ một cách hợp pháp theo một trong hai cách, bằng cách gia nhập tạm thời (không di dân) hoặc gia nhập vĩnh viễn (nhập cư). Một thành viên của loại thứ hai được phân loại là thường trú nhân hợp pháp và nhận được thẻ xanh cho họ đủ điều kiện làm việc tại Hoa Kỳ và cuối cùng nộp đơn xin quốc tịch.
Có lẽ không có sự phản ánh nào lớn hơn về tác động của nhập cư so với cuộc bầu cử năm 2008 của Barack Obama, con trai của một người cha Kenya và một người mẹ Mỹ (từ Kansas), với tư cách là tổng thống đầu tiên của người Mỹ gốc Phi. Tám mươi lăm phần trăm người Mỹ là da trắng vào năm 1965, dân số cộng đồng dân tộc nay đã chiếm một phần ba trong năm 2009 và đang sẽ thay thế người da trắng trở thành nhóm lớn nhất vào năm 2042.
Comments